Hiện nay, ở nhiều tỉnh thành nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội. Khối lượng bùn thải đô thị đang tăng lên với mức độ đáng báo động. Trong khi đó phương án vận chuyển và xử lý bùn thải đô thị lại chưa mang lại hiệu quả. Điều này đã gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường cũng như đời sống của người dân.
Trong khi lượng bùn thải ở các đô thị của nước ta ngày càng tăng nhưng cơ chế quản lý, phân loại bùn thải còn chưa hiệu quả. Bên cạnh đó, việc lựa chọn công nghệ phù hợp, đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật. Để vừa bảo vệ môi trường, vừa có hiệu quả kinh tế còn bỏ ngỏ.
Bùn thải đô thị là gì?
Bùn thải đô thị là lượng bùn thải phát sinh từ hệ thống thoát nước thải sinh hoạt. Nước thải công nghiệp, nước thải bệnh viện hay từ nhà máy xử lý nước thải và từ các hoạt động nạo vét kênh rạch. Lượng bùn thải này chứa nhiều thành phần phức tạp. Trong đó phải kể đến là các kim loại nặng như chì, thủy ngân, crom, asen… có độc tính cao, đe dọa đến sức khỏe con người. Và có thể hủy hoại môi trường sống nếu không được xử lý.
Nguồn gốc
Theo ông Hoàng Dương Tùng, nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường cho biết. Các công đoạn xử lý nước thải làm phát sinh một lượng bùn thải đáng kể.
Bùn thải đô thị được phân loại chủ yếu theo nguồn gốc phát sinh gồm:
- Ở các đô thị của chúng ta, hầu hết các hộ gia đình sử dụng hệ thống vệ sinh tại chỗ và chủ yếu là các bể tự hoại. Phần lớn nước thải được xả vào hệ thống thoát nước công cộng.
- Còn bùn thải từ các công trình vệ sinh và từ mạng lưới đường ống thoát nước được thông hút, nạo vét, thu gom và vận chuyển bùn thải chưa qua xử lý. Hoặc chỉ mới khử nước đổ thẳng ra kênh rạch, sông hồ hoặc bãi chôn lấp cùng với các loại rác thải đô thị.
Đặc điểm
Đặc điểm các đô thị của nước ta phần nhiều là đô thị cũ, đô thị cải tạo và mở rộng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật bị hạn chế trong khi mật độ dân số ngày một cao, lượng bùn thải ngày một tăng. Chỉ tính riêng ở khu vực đô thị. Hệ số phát sinh bùn thải từ các công trình vệ sinh trung bình là 0,04-0,07m3/người/năm; từ hệ thống thoát nước khoảng 0,146-0,365m3/người/năm.
Các loại bùn cặn nước thải có độ ẩm lớn. Nên khi thu gom, vận chuyển rất khó khăn và dễ gây ô nhiễm môi trường.
- Bùn cặn nước thải sinh hoạt có hàm lượng chất hữu cơ cao, nồng độ kim loại nặng và chỉ số độc hại thấp. Có thể sử dụng làm phân bón nhưng lại chứa nhiều vi khuẩn, trứng giun sán dễ gây bệnh.
- Đối với hệ thống thoát nước, bùn thải từ mạng lưới thoát nước và bùn nạo vét kênh rạch chứa chủ yếu là cát và đất.
Công tác thu gom, xử lý bùn thải đô thị của nước ta còn gặp nhiều khó khăn
Điều đáng nói là hiện nay hầu hết công tác thu gom, vận chuyển và xử lý bùn thải đô thị đều đang gặp khó khăn. Và chưa được quản lý chặt chẽ do thiếu nhà máy xử lý. Cũng như chưa có phương pháp xử lý phù hợp. Vì thế, rất ít bùn thải đô thị được đưa đi xử lý. Mà chủ yếu là xả thẳng ra môi trường hoặc xử lý không đúng cách.
Vấn đề thu gom chưa triệt để
Tuy việc nạo vét bùn từ mạng lưới thoát nước ở nhiều đô thị lớn đã được cơ giới hóa. Nhưng những khu vực đô thị vừa và nhỏ vẫn còn sử dụng phương pháp thủ công. Phương pháp thủ công tuy chi phí thấp nhưng năng suất lại không cao. Khó thu gom bùn thải một cách triệt để và gây nguy hại đến sức khỏe người lao động.
Vì thế, việc thông hút, vận tải bùn từ bể tự hoại của các hộ dân sẽ ngày càng khó khăn hơn do khó tiếp cận khu vực. Trong đó, bùn thải thường có độ ẩm cao, các phương tiện hút và vận chuyển phần lớn đã cũ lại thiếu thốn. Không bảo đảm vệ sinh môi trường và không phù hợp với điều kiện hạ tầng kỹ thuật cũng đang phát triển với tốc độ nhanh.
Công nghệ xử lý bùn thải chưa phù hợp
Việc xử lý kết hợp bùn thải đô thị được thực hiện ở một số nước Châu Á, Châu Phi hoặc tại một số nước phát triển. Toàn bộ chất thải từ hệ thống thoát nước và các công trình vệ sinh được tập trung về nhà máy xử lý nước thải để xử lý.
Tuy nhiên, việc xây dựng và vận hành hệ thống xử lý này tốn kém và yêu cầu trình độ quản lý cao. Ở Việt Nam bước đầu đã áp dung một số công nghệ xử lý bùn thải chi phí thấp. Nhiều sản phẩm được sản xuất từ bùn thải được sử dụng làm vật liệu xây dựng, sử dụng trong nông nghiệp. Ngoài ra việc tái sử dụng bùn thải nhằm tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên, việc lựa chọn công nghệ cho phù hợp, đáp ứng các yêu cầu theo tiêu chuẩn. Quy chuẩn kỹ thuật hiện đang còn để ngỏ.
Vấn đề quản lý bùn thải của Việt Nam còn chưa được quan tâm đúng mức
Hơn nữa, vấn đề quản lý bùn thải của chúng ta còn chưa được quan tâm đúng mức. Và hiện chưa có đô thị nào có biện pháp quản lý và xử lý thực sự phù hợp. Khâu xử lý bùn thải chiếm phần lớn kinh phí đầu tư xây dựng và vận hành các trạm xử lý nước thải. Khâu thu gom cũng không được đầu tư mạnh. Bên cạnh đó, trên địa bàn cả nước. Chúng ta vẫn chưa có thống kê đầy đủ về khối lượng bùn thải từ hệ thống kênh mương, ao hồ. Để đưa ra hướng xử lý cụ thể.
Hướng xử lý
Hướng tới tái sử dụng bùn thải vi sinh
Ở Việt Nam, bước đầu đã áp dụng một số công nghệ XLBT có chi phí thấp. Nhiều địa phương áp dụng công nghệ tái sử dụng bùn thải để làm vật liệu xây dựng, phân bón…
Ví dụ, ở Hà Nội, Trạm XLNT Yên Sở (quận Hoàng Mai) với công suất thiết kế 200.000m3/ngày. Áp dụng công nghệ phân hủy kỵ khí để ổn định bùn, khí biogas được thu hồi. Sau đó đốt bỏ, bùn thải sau khi được “làm sạch” có thể làm vật liệu xây dựng.
Hay Trạm XLNT Đà Lạt (TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng) sản xuất phân vi sinh từ bùn. Sau khi khử nước và ổn định bùn (bằng sân phơi). Tuy vậy, đầu ra cho sản phẩm phân vi sinh. Cũng như vấn đề gây ô nhiễm môi trường khi sản xuất.
Giảm tối đa việc chôn lấp bùn thải gây ô nhiễm môi trường
Trước thực trạng hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm các nước phát triển. Áp dụng công nghệ mới trong xử lý bùn thải hướng tới giảm tối đa việc chôn lấp. Trong đó kết hợp hai yếu tố môi trường và kinh tế. Để đưa ra các công nghệ thích hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng vẫn bảo vệ môi trường. Một trong số đó là khuyến khích áp dụng công nghệ tái sử dụng bùn thải. Dùng biện pháp thu hồi nhiệt để biến thành năng lượng. Có thể phục vụ chính nhà máy xử lý đó.
Siết chặt quản lý vận hành việc thu gom, vận chuyển và xử lý bùn thải đô thị đúng
Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 6/8/2014 của Chính phủ về Thoát nước và xử lý nước thải đã có một số điều quy định về quản lý bùn thải; quản lý bùn thải từ bể tự hoại cũng như các quy định về tái sử dụng bùn thải. Thông tư 04/2015/TT-BXD ngày 3/4/2015 Hướng dẫn thi hành một số điều của NDD80/2014. Đã quy định khá chi tiết và cụ thể hóa về quản lý bùn thải từ hệ thống thoát nước và quản lý bùn thải tự hoại. Đây là văn bản pháp lý quan trọng để quản lý lĩnh vực này.
Các cơ quan quản lý cũng cần rà soát. Cập nhật và ban hành mới các quy định có liên quan đến quản lý bùn thải. Xây dựng cơ sở dữ liệu về bùn thải cùng chính sách huy động nguồn lực tham gia đầu tư. Quản lý vận hành việc thu gom, vận chuyển và xử lý bùn thải đô thị. Cùng với đó là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong quản lý chất thải nói chung và bùn thải nói riêng.
Dịch vụ vận chuyển và xử lý bùn thải đô thị tại công ty Vệ Sinh Môi Trường Số 1 tại Hà Nội
Để giải quyết vấn đề bùn thải đô thị. Cần có sự chung tay của các cấp ban ngành phối hợp với các đơn vị môi trường. Công ty vệ sinh Môi Trường Số 1 tại Hà Nội là một trong những đơn vị có đủ năng lực thực hiện vận chuyển và xử lý bùn thải đô thị, cam kết mang đến giải pháp xử lý bùn thải hiệu quả nhất.
Liên hệ hotline : 0963.313.181